Scholar Hub/Chủ đề/#viêm màng não mủ/
Viêm màng não mủ (hay còn gọi là viêm màng não lan tỏa) là một bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng của màng não và hệ thống thần kinh trung ương. Bệnh này được gây ra...
Viêm màng não mủ (hay còn gọi là viêm màng não lan tỏa) là một bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng của màng não và hệ thống thần kinh trung ương. Bệnh này được gây ra bởi các vi khuẩn, virus hoặc tác nhân gây nhiễm. Viêm màng não mủ có thể gây ra các triệu chứng như đau đầu cấp tính, sốt cao, buồn nôn, ói mửa, cứng cổ và cảm giác mệt mỏi. Nếu không được điều trị kịp thời, nó có thể gây ra biến chứng nghiêm trọng như co giật, mất ý thức, tê liệt và thậm chí gây tử vong.
Viêm màng não mủ là một bệnh nhiễm trùng lan tỏa trong hệ thống màng não và tủy sống. Bệnh này có thể do nhiều loại vi khuẩn, virus, nấm hoặc tác nhân gây nhiễm khác gây ra. Các vi khuẩn phổ biến gây ra viêm màng não mủ bao gồm Streptococcus pneumoniae, Neisseria meningitidis và Haemophilus influenzae.
Triệu chứng của viêm màng não mủ có thể bắt đầu đột ngột và nhanh chóng trở nên nghiêm trọng. Một số triệu chứng thông thường gồm:
1. Đau đầu: Đau đầu thường được miêu tả là cấp tính và nặng nề, có thể lan rộng và trở nên tăng cường khi người bệnh cố gắng cụ thể như cong cổ hoặc hoạt động.
2. Sốt cao: Sốt cao thường gắn liền với viêm màng não mủ. Nhiệt độ có thể lên đến 39-40°C.
3. Buồn nôn và ói mửa: Cảm giác buồn nôn và ói mửa thường kèm theo viêm màng não mủ và có thể xuất hiện ngay sau một cơn đau đầu.
4. Cứng cổ: Cứng cổ là một triệu chứng chính của viêm màng não mủ. Cổ bị cứng và không thể cúi xuống cũng như khó khăn trong việc bẻ cổ lên phía trước.
5. Cảm giác mệt mỏi và mất năng lượng: Viêm màng não mủ có thể dẫn đến mệt mỏi mất năng lượng nhanh chóng.
Nếu không được điều trị kịp thời, viêm màng não mủ có thể gây ra các biến chứng nguy hiểm bao gồm viêm não, co giật, mất ý thức, tê liệt, suy hô hấp và thậm chí gây tử vong. Vì vậy, việc chẩn đoán và điều trị sớm là rất quan trọng để ngăn chặn các biến chứng nghiêm trọng và cải thiện kết quả của bệnh nhân.
Viêm màng não mủ là một bệnh nhiễm trùng lan tỏa trong hệ thống màng não và tủy sống. Bệnh này thường được chia thành hai hình thức chính là viêm màng não mủ mạn tính (hay còn gọi là viêm màng não mủ đặc trị) và viêm màng não mủ cấp tính (hay còn gọi là viêm màng não mủ lanh tính).
Viêm màng não mủ mạn tính: Đây là hình thức bệnh phổ biến nhất và nguy hiểm nhất. Nó thường do các vi khuẩn gây nhiễm như Streptococcus pneumoniae, Haemophilus influenzae, Neisseria meningitidis. Triệu chứng ban đầu thường rất không đặc hiệu, giống như một cơn cảm lạnh thông thường, bao gồm sự mệt mỏi, đau đầu, sốt nhẹ, nôn mửa, sụt cân. Tình trạng này có thể tiến triển sang phần sau của bệnh với triệu chứng như cứng cổ, cảm giác sợ sáng, co giật, mất ý thức và các biến chứng nghiêm trọng khác như viêm não, suy hô hấp, suy thận, thậm chí tử vong.
Viêm màng não mủ cấp tính: Đây là hình thức ít nguy hiểm hơn và thường tự giới hạn. Nó thường xuất hiện sau một cơn cảm lạnh hoặc viêm họng và do các virus gây nhiễm như virus Herpes simplex, virus Varicella zoster, virus Epstein-Barr. Triệu chứng bao gồm đau đầu, sốt nhẹ, mệt mỏi, mất năng lượng, nhức mỏi cơ và khớp, khó chịu, không có cứng cổ và triệu chứng thần kinh ngoại vi.
Viêm màng não mủ thường được chẩn đoán thông qua việc khám bệnh, xét nghiệm dịch tủy não, xét nghiệm máu và đôi khi có thể cần thực hiện các xét nghiệm hình ảnh như CT scan hay MRI.
Điều trị viêm màng não mủ thường bao gồm sự kết hợp giữa điều trị nội khoa và ngoại khoa. Phương pháp điều trị cụ thể sẽ phụ thuộc vào loại vi khuẩn hoặc virus gây nhiễm, nhưng có thể bao gồm sự sử dụng kháng sinh, thuốc kháng vi rút, thuốc giảm đau, thuốc chống co giật và các biện pháp chăm sóc và hỗ trợ như nghỉ ngơi, điều chỉnh chế độ ăn, uống đủ nước và dưỡng chất. Việc tiêm vắc xin viêm màng não cũng rất quan trọng để phòng ngừa bệnh.
Viêm màng não Chagas ở người suy miễn dịch Dịch bởi AI Arquivos de Neuro-Psiquiatria - Tập 56 Số 1 - Trang 93-97 - 1998
Dựa trên kinh nghiệm của bản thân và tài liệu hiện có, các tác giả so sánh bệnh lý não bộ do nhiễm trùng Trypanosoma cruzi tái hoạt hóa liên quan đến HIV+ với những gì đã được mô tả trong lịch sử tự nhiên của bệnh Chagas (CD). Viêm màng não và não chagas hoại tử biệt hóa (MECNF) đặc trưng, xuất hiện chỉ ở những người mắc bệnh Chagas suy giảm miễn dịch, đặc biệt khi sự suy giảm đó do HIV, là tiêu chí an toàn cho tái hoạt hóa CD. Các phát hiện hình thái của MECNF khác với những gì tìm thấy trong một số trường hợp của giai đoạn cấp tính của CD hoặc hình thức thần kinh mạn tính của CD.
Triển khai các xét nghiệm chẩn đoán nhanh bệnh lao và viêm màng não do nấm Cryptococcus ở những bệnh nhân HIV giai đoạn nặng tại Bệnh viện Trung ương Kamuzu, Malawi, 2016–2017 Dịch bởi AI BMC Infectious Diseases - - 2022
Tóm tắt
Đặt vấn đề
Viêm màng não do nấm Cryptococcus (CM) và bệnh lao (TB) vẫn là những nguyên nhân hàng đầu gây nhập viện và tử vong ở những người sống chung với HIV, đặc biệt là những người mắc bệnh HIV giai đoạn nặng. Ở những bệnh nhân nhập viện, việc chẩn đoán kịp thời các bệnh này có thể cải thiện kết quả điều trị. Các xét nghiệm chẩn đoán nhanh HIV giai đoạn nặng như xét nghiệm dòng chảy bên TB lipoarabinomannan trong nước tiểu (urine LAM), xét nghiệm X-pert MTB/RIF trong nước tiểu (urine X-pert), và xét nghiệm kháng nguyên Cryptococcus trong huyết thanh/máu (serum CrAg) được khuyến cáo nhưng thường không có sẵn ở nhiều cơ sở y tế có tài nguyên hạn chế. Chúng tôi mô tả kinh nghiệm của chúng tôi trong việc cung cấp những xét nghiệm này trong một môi trường bệnh viện thường xuyên.
Phương pháp
Từ 1 tháng 8 năm 2016 đến 31 tháng 1 năm 2017, một nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu nhằm chẩn đoán TB và viêm màng não do nấm Cryptococcus bằng các xét nghiệm point of care đã được thực hiện tại các khoa điều trị nội ở Bệnh viện Trung ương Kamuzu, ở Lilongwe, Malawi. Các xét nghiệm được cung cấp bao gồm đo lường số lượng tế bào CD4 PIMA, serum CrAg, urine LAM và urine X-pert. Việc xét nghiệm được tích hợp vào một phòng điều trị HIV/TB hiện có tại các khoa và được thực hiện gần thời gian nhập viện. Bệnh nhân được theo dõi cho đến khi xuất viện hoặc tử vong trong khoa.
Kết quả
Chúng tôi đã bao gồm 438 bệnh nhân dương tính với HIV; 76% đã có chẩn đoán HIV trước đó (87% đã bắt đầu điều trị ART). Chúng tôi đã đo lường số lượng tế bào CD4 ở 365/438 (83%), serum CrAg ở 301/438 (69%), urine LAM ở 363/438 (83%), và urine X-pert ở 292/438 (67%). Số lượng tế bào CD4 trung bình là 144 tế bào/ml (IQR 46–307). Tỷ lệ dương tính với serum CrAg là 23/301 (8%) và CM được xác nhận bằng CSF CrAg ở 13/23 (56%). Phần lớn bệnh nhân CM 9/13 (69%) bắt đầu điều trị thuốc chống nấm trong vòng hai ngày kể từ khi chẩn đoán. Tỷ lệ dương tính của urine LAM và urine X-pert lần lượt là 81/363 (22%) và 14/292 (5%). Tỷ lệ dương tính của urine LAM cao hơn ở những bệnh nhân có số lượng tế bào CD4 thấp (< 100 tế bào/ml) và BMI thấp (< 18.5). Hầu hết các bệnh nhân có urine LAM dương tính đã bắt đầu điều trị TB cùng ngày. Mặc dù đã phát hiện sớm và điều trị TB và CM, tỷ lệ tử vong trong bệnh viện vẫn cao; lần lượt là 30% và 25%.
Kết luận
Mặc dù các xét nghiệm chẩn đoán nhanh HIV giai đoạn nặng được khuyến cáo, một thách thức chính trong việc triển khai là số lượng nhân viên được đào tạo hạn chế để thực hiện các xét nghiệm. Mặc dù việc sử dụng hiệu quả các xét nghiệm point of care trong chăm sóc lâm sàng cho bệnh nhân TB và CM nhập viện, tỷ lệ tử vong ở những bệnh nhân này vẫn ở mức cao không thể chấp nhận. Do đó, chúng tôi cần đào tạo thêm các nhóm nhân viên ngoài y tá, bác sĩ lâm sàng và kỹ thuật viên phòng thí nghiệm để thực hiện các xét nghiệm này. Cần thiết phải xác định và sửa đổi các yếu tố nguy cơ khác gây ra tỷ lệ tử vong từ TB và CM.
#HIV #viêm màng não do nấm Cryptococcus #bệnh lao #xét nghiệm chẩn đoán nhanh #chăm sóc bệnh nhân
GIÁ TRỊ CỦA LACTAT DỊCH NÃO TỦY TRONG ĐÁNH GIÁ ĐÁP ỨNG ĐIỀU TRỊ VIÊM MÀNG NÃO MỦ Ở TRẺ EMMục tiêu: Xác định độ nhạy, độ đặc hiệu của xét nghiệm lactate trong dịch não tủy (DNT) để đánh giá đáp ứng điều trị sau 48 giờ dùng kháng sinh ở trẻ viêm màng não mủ.
Đối tượng và phương pháp: Bệnh nhân nhi nhập viện tại Trung tâm Nhi khoa Bệnh viện đa khoa Trung ương Huế trong 3 năm (2016 - 2018), với chẩn đoán viêm màng não mủ. Xác định chẩn đoán dựa vào phân tích kết quả dịch não tủy. Nghiên cứu mô tả, tiến cứu.
Cỡ mẫu: mẫu được lấy theo phương pháp chọn mẫu thuận tiện. Các biến số nghiên cứu: tế bào, protein, glucose, lactate DNT trước và sau 48 giờ; đáp ứng điều trị (hoàn toàn, không hoàn toàn). Sử dụng đường cong ROC (Receiver Operating Characteristic) để phân tích khả năng dự báo đáp ứng điều trị của lactate DNT.
Kết quả: 54 trường hợp VMNM (37 nam, 17 nữ), trung vị tuổi 46 tháng. 35 trường hợp đáp ứng hoàn toàn sau 48 giờ điều trị kháng sinh. Nếu lactate DNT trước điều trị > 7,7mmo/l tiên lượng khả năng đáp ứng không hoàn toàn với độ nhạy 75% và độ đặc hiệu 80%. Mức giảm lactate DNT ở nhóm đáp ứng hoàn toàn nhiều hơn có ý nghĩa so với nhóm đáp ứng không hoàn toàn (6,5 ± 1,7mmol/l so với 2,3 ± 1,6mmol/l, p < 0,001). Với mức giảm lactate DNT > 3mmol/l so với ban đầu tiên đoán đáp ứng điều trị hoàn toàn có độ nhạy 87% và độ đặc hiệu 87,1%. Diện tích dưới đường cong của mức thay đổi lactate DNT AUC = 0,887 và lớn hơn so với protein, glucose và tế bào dịch não tủy. Kết luận: nồng độ lactate DNT lúc ban đầu và mức độ giảm sau 48 giờ điều trị có giá dự báo đáp ứng điều trị, tốt hơn so với protein, glucose và tế bào DNT tương ứng.
#Dịch não tủy #viêm màng não
KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM RÒ DỊCH NÃO TỦY QUA MŨI TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY TỪ NĂM 2017 ĐẾN NĂM 2022Đặt vấn đề: Rò dịch não tủy qua mũi là một tình trạng trong đó có sự thông thương giữa dịch não tủy trong khoang nội sọ với hốc mũi. Về nguyên nhân, rò dịch não tủy thường được chia thành nguyên nhân không chấn thương và nguyên nhân chấn thương. Nguyên nhân chấn thương thường gặp hơn và có thể gây ra bởi điều trị (thứ phát sau phẫu thuật sàn sọ trước và phẫu thuật nội soi mũi xoang). Những bệnh nhân rò dịch não tủy qua mũi có nguy cơ viêm màng não và các biến chứng nội sọ khác do sự xâm nhập của vi khuẩn từ hốc mũi. Mặc dù có những tiến bộ về nội khoa, các biến chứng này vẫn đe dọa tính mạng người bệnh, do đó cần chẩn đoán sớm, xác định chính xác vị trí rò và can thiệp kịp thời để giảm tử suất. Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân rò dịch não tủy qua mũi. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hồi cứu hàng loạt ca. Nghiên cứu được tiến hành tại bệnh viện Chợ Rẫy từ năm 2021 đến năm 2022. Nghiên cứu bao gồm 84 bệnh nhân được chẩn đoán rò dịch não tủy qua mũi. Kết quả: Nguyên nhân thường gặp nhất gây ra rò dịch não tủy qua mũi là chấn thương đầu (82,2%), các nguyên nhân khác có thể là tổn thương gây ra trong phẫu thuật (13,1%) và rò dịch não tủy tự phát (4,8%). Phần lớn bệnh nhân là nam giới (83,3%). Các triệu chứng thường gặp là chảy dịch mũi trong một hay hai bên, đau đầu (42,9%), sốt (19,0%). Tỉ lệ biến chứng viêm màng não mủ là 13,1%. Chụp cắt lớp vi tính được chỉ định ở tất cả các bệnh nhân, cho thấy dấu hiệu tụ khí nội sọ (76,4%), mất liên tục xương sàn sọ (62,5%), mức khí dịch trong các xoang cạnh mũi (40,3%), khối thoát vị não-màng não (2,8%). Kết luận: Rò dịch não tủy qua mũi có thể gây ra bởi chấn thương hoặc không do chấn thương. Ngoài triệu chứng chảy dịch mũi trong, có thể có các triệu chứng khác đi kèm. Rò dịch não tủy qua mũi có thể dẫn tới biến chứng viêm màng não, đe dọa tính mạng bệnh nhân.
#rò dịch não tủy qua mũi #dịch não tủy #viêm màng não.
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG BỆNH VIÊM MÀNG NÃO MỦ Ở NGƯỜI LỚN TẠI BỆNH VIỆN TỈNH THANH HÓAĐể góp phần nâng cao kết quả điều trị và phòng chống bệnh viêm màng não mủ (VMNM) tại tỉnh Thanh Hóa, một nghiên cứu hồi cứu trong giai đoạn 7/2019 - 6/2022 đã xác định được 24 bệnh nhân người lớn VMNM, đáp ứng các tiêu chuẩn lâm sàng và vi sinh, điều trị tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa. Kết quả cho thấy, tại Thanh Hóa, bệnh VMNM rải rác quanh năm, tăng vào các tháng thời tiết nóng. Bệnh gặp ở mọi nhóm tuổi, tập trung ở nhóm 41- 60 tuổi (50,0%), nam chiếm 75%. nghề nông chiếm 66,7% và tỷ lệ có bệnh nền là 62,5%. Các biểu hiện lâm sàng và dịch não tủy không điển hình. Sốt chỉ gặp ở 87,5%, tần xuất các biểu hiện đau đầu, cứng gáy, nôn và Kernig từ 54,2% - 100,0%. Tỷ lệ VMNM kết hợp nhiễm khuẩn huyết là 62,5%. Các căn nguyên gây bệnh gồm S. suis (70,8%) và S. pneumoniae (20,8%) đều nhậy cảm với cephalosporin thế hệ III và vancomycin, trong khi E. coli (4,2%), S. mitis (4,2%) kháng với các kháng sinh trên. S. suis hay gặp ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch, S. pneumoniae có liên quan với đường xâm nhập.
#viêm màng não mủ #Streptococcus suis #Streptococcus pneumoniae
Nghiên cứu về dịch não tủy Dịch bởi AI Research in Experimental Medicine - Tập 92 - Trang 147-150 - 1934
Thông qua việc gây nhiễm trùng dưới màng nhện bằng Streptococcus mucosus, chúng tôi đã tạo ra bệnh viêm màng não Mucosus trên thỏ và chó trong các thí nghiệm. Một vài giờ đến vài ngày sau khi nhiễm trùng dưới xương chẩm xảy ra, các động vật thí nghiệm đã xuất hiện triệu chứng viêm màng não. Các kết quả dịch não tủy tương tự như trong trường hợp viêm màng não mủ.
#viêm màng não #Streptococcus mucosus #dịch não tủy #thí nghiệm trên động vật
Cấu trúc tế bào giống như spheroplast của vi khuẩn Pneumococcus Dịch bởi AI Experientia - Tập 20 - Trang 135-135 - 1964
Các hình thức giống như spheroplast của vi khuẩn Pneumococcus đã được phát hiện trong các mẫu dịch não tuỷ ở bệnh nhân viêm màng não mủ, có khả năng là do điều trị bằng penicillin gây ra.
#viêm màng não mủ #Pneumococcus #spheroplast #penicillin #dịch não tuỷ
Mức độ Amyloid-βeta 1–42 thấp trong dịch não tủy ở bệnh nhân viêm màng não do lao Dịch bởi AI BMC Neurology - Tập 21 - Trang 1-8 - 2021
Viêm màng não do lao (TBM) là một bệnh quan trọng dẫn đến tình trạng bệnh tật, khuyết tật và tử vong, chủ yếu ảnh hưởng đến trẻ em và những bệnh nhân có hệ miễn dịch suy yếu. Các dấu hiệu thần kinh cụ thể dự đoán kết quả, mức độ nghiêm trọng và phản ứng viêm vẫn còn thiếu. Trong những năm gần đây, một số lượng ngày càng tăng các bằng chứng cho thấy vai trò khả thi của các tác nhân gây nhiễm trong sự phát triển của các bệnh thoái hóa thần kinh. Chúng tôi đã hồi cứu 13 bệnh nhân âm tính với HIV được chẩn đoán mắc TBM và so sánh họ với hai nhóm đối chứng: một nhóm bệnh nhân được chẩn đoán xác nhận mắc Alzheimer (AD) và một nhóm bệnh nhân mắc giang mai, trong đó chọc dò tủy sống đã loại trừ tổn thương hệ thần kinh trung ương. Chọc dò tủy sống đã được thực hiện vì lý do lâm sàng và các chỉ số sinh hóa trong dịch não tủy (CNS) có sẵn thường xuyên: chúng tôi đã phân tích tính thấm hàng rào máu não (tỷ lệ albumin dịch não tủy và huyết thanh, “CSAR”), tổng hợp IgG nội tủy (tỷ lệ IgG dịch não tủy và huyết thanh), viêm (neopterin), lắng đọng amyloid (Aβ1–42), tổn thương thần kinh (T-tau, P-tau, 14.3.3) và hiện tượng sao thần kinh (S-100 β). 83% bệnh nhân TBM là nam và 67% là người da trắng với tuổi trung vị là 51 tuổi (IQR 24.5–63.5). Ngoài sự biến đổi CSAR (giá trị trung vị 18.4, IQR 17.1–30.9), neopterin (14.3 ng/ml, IQR 9.7–18.8) và tỷ lệ IgG (15.4, IQR 7.9–24.9), bệnh nhân có mức Aβ1–42 rất thấp trong dịch não tủy của họ (348.5 pg/mL, IQR 125-532.2), thấp hơn so với nhóm AD và nhóm đối chứng [603 pg/mL (IQR 528–797) và 978 (IQR 789–1178)]. Protein 14.3.3 có sự thay đổi trong 38.5% các trường hợp. T-tau, P-tau và S100Beta nằm trong khoảng bình thường. Mức Aβ1–42 thấp có sự thay đổi tương quan theo thời gian với các phát hiện TBM cổ điển và các dấu hiệu thần kinh biến đổi. Các chỉ số sinh hóa trong dịch não tủy từ bệnh nhân TBM phù hợp với tình trạng viêm, tổn thương hàng rào máu não và suy giảm trong chuyển hóa amyloid-beta. Amyloid-beta có thể được kiểm tra như một dấu ấn tiên lượng, hỗ trợ việc sử dụng thường quy các dấu hiệu thần kinh có sẵn. Theo kiến thức của chúng tôi, đây là trường hợp đầu tiên cho thấy mức Aβ1–42 thấp như vậy ở bệnh nhân TBM; sự tích tụ của nó, do viêm thần kinh liên quan đến nhiễm trùng, có thể là trung tâm trong việc hiểu các bệnh thoái hóa thần kinh.
#viêm màng não do lao #dịch não tủy #amyloid-beta #dấu hiệu thần kinh #nhiễm trùng #bệnh thoái hóa thần kinh
Sử dụng Rifampin trong viêm màng não do vi khuẩn mắc phải trong cộng đồng tại các đơn vị chăm sóc tích cực: Nghiên cứu hồi cứu ACAM-ICU của Pháp Dịch bởi AI Critical Care - Tập 19 - Trang 1-9 - 2015
Viêm màng não do vi khuẩn ở những bệnh nhân trưởng thành đang điều trị tích cực vẫn liên quan đến tỷ lệ tử vong cao và thường gây ra tình trạng khuyết tật kéo dài. Vancomycin đã được bổ sung vào phác đồ điều trị cùng với một loại cefalosporin thế hệ thứ ba theo khuyến nghị của hướng dẫn quốc gia Pháp. Do các nghiên cứu trên mô hình động vật đã gợi ý về việc sử dụng rifampin trong điều trị viêm màng não do vi khuẩn, và sau khi bắt đầu điều trị corticoid sớm (năm 2002), đã có xu hướng gia tăng sử dụng rifampin cho bệnh nhân trong đơn vị chăm sóc tích cực (ICU). Mục tiêu của bài viết này là báo cáo về thực hành này. Năm đơn vị ICU đã tham gia vào nghiên cứu. Các đặc điểm cơ bản và dữ liệu điều trị được thu thập hồi cứu từ hồ sơ bệnh án của những bệnh nhân nhập viện với chẩn đoán viêm màng não do vi khuẩn cấp tính trong khoảng thời gian 5 năm (2004–2008). Tỷ lệ tử vong tại ICU là thước đo kết quả chính; Thang điểm Kết quả Glasgow và tỷ lệ tử vong 3 tháng cũng đã được đánh giá. Có 157 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu. Streptococcus pneumoniae và Neisseria meningitidis là tác nhân gây bệnh phổ biến nhất. Tỷ lệ tử vong tại ICU là 15%. Liều cao của cefalosporin là phương pháp điều trị kháng sinh ban đầu phổ biến nhất. Thời gian từ khi nhập viện đến khi dùng liều kháng sinh đầu tiên có mối liên quan với tỷ lệ tử vong tại ICU. Rifampin được sử dụng cùng với cefalosporin cho 32 bệnh nhân (chiếm từ 8 % của nhóm cho năm 2004 đến 30 % vào năm 2008). Việc sử dụng rifampin trong 24 giờ đầu tiên nhập viện có thể liên quan đến tỷ lệ sống sót thấp hơn tại ICU. Mối liên hệ thống kê giữa việc điều trị rifampin sớm và tỷ lệ tử vong tại ICU chỉ đạt được ý nghĩa thống kê đối với bệnh nhân mắc viêm màng não do pneumococci (p=0.031) trong phân tích đơn biến, nhưng không có trong mô hình logistic. Chúng tôi báo cáo vai trò của việc sử dụng rifampin cho bệnh nhân mắc viêm màng não mắc phải trong cộng đồng, và kết quả của nghiên cứu này gợi ý rằng thực hành này có thể liên quan đến tỷ lệ tử vong thấp hơn tại ICU. Tuy nhiên, các yếu tố tiên đoán độc lập duy nhất của tỷ lệ tử vong tại ICU là sự suy chức năng cơ quan và nhiễm trùng pneumococci. Cần có các nghiên cứu tiếp theo để xác nhận những kết quả này và giải thích cách thức sử dụng rifampin có thể giảm tỷ lệ tử vong.
#viêm màng não do vi khuẩn #rifampin #chăm sóc tích cực #tỷ lệ tử vong #nghiên cứu hồi cứu
Di chứng một năm và chất lượng cuộc sống ở người lớn mắc viêm màng não do não mô cầu: Bài học từ nghiên cứu đa trung tâm COMBAT Dịch bởi AI Advances in Therapy - Tập 39 - Trang 3031-3041 - 2022
COMBAT là một nghiên cứu đoàn hệ đa trung tâm có triển vọng, đã ghi nhận những người trưởng thành mắc viêm màng não do vi khuẩn cộng đồng (CABM) liên tiếp tại 69 trung tâm tham gia ở Pháp từ tháng 2 năm 2013 đến tháng 7 năm 2015 và theo dõi họ trong 1 năm. Bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên, nhập viện do CABM đã được theo dõi trong thời gian nằm viện và sau đó được liên hệ qua điện thoại 12 tháng sau khi ghi danh. Ở đây chúng tôi trình bày tỷ lệ di chứng sau 12 tháng ở một nhóm bệnh nhân mắc viêm màng não do não mô cầu. Năm trong số 111 bệnh nhân mắc viêm màng não do não mô cầu đã tử vong trong thời gian nhập viện ban đầu và hai người đã tử vong giữa thời gian xuất viện và 12 tháng, để lại 104 bệnh nhân sống sót 1 năm sau khi ghi danh, trong đó 71 người đã cung cấp dữ liệu theo dõi sau 12 tháng. Độ tuổi trung vị là 30,0 tuổi và 54,1% bệnh nhân không có yếu tố nguy cơ nào được xác định cho bệnh viêm màng não. Hơn 30% báo cáo về cơn đau đầu kéo dài, hơn 40% không hài lòng với giấc ngủ của họ và 10% gặp khó khăn trong việc tập trung. Suy giảm thính lực có mặt ở khoảng 15% bệnh nhân và hơn 30% có triệu chứng trầm cảm. Khoảng 13% bệnh nhân có hoạt động nghề nghiệp trước đó không quay lại làm việc. Trên bảng khảo sát sức khỏe SF-12, gần 50% và 30% có điểm số thành phần thể chất hoặc thành phần tinh thần thấp hơn phân vị thứ 25 trong phân bố điểm số của dân số chung Pháp. Có sự cải thiện không đáng kể về điểm số khuyết tật của bệnh nhân từ thời điểm xuất viện đến 12 tháng (p = 0.16), nhưng khoảng 10% bệnh nhân có khuyết tật còn lại. Mặc dù hầu hết bệnh nhân trong đoàn hệ của chúng tôi sống sót sau viêm màng não do não mô cầu, gánh nặng lâu dài là đáng kể và do đó quan trọng là phải đảm bảo theo dõi lâu dài cho những người sống sót và thúc đẩy các chiến lược phòng ngừa, bao gồm cả việc tiêm vaccine. Số hiệu nhận diện ClinicalTrial.Gov NCT01730690.
#viêm màng não #não mô cầu #di chứng #chất lượng cuộc sống #theo dõi #phòng ngừa #vaccine