Scholar Hub/Chủ đề/#viêm màng não mủ/
Viêm màng não mủ (hay còn gọi là viêm màng não lan tỏa) là một bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng của màng não và hệ thống thần kinh trung ương. Bệnh này được gây ra...
Viêm màng não mủ (hay còn gọi là viêm màng não lan tỏa) là một bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng của màng não và hệ thống thần kinh trung ương. Bệnh này được gây ra bởi các vi khuẩn, virus hoặc tác nhân gây nhiễm. Viêm màng não mủ có thể gây ra các triệu chứng như đau đầu cấp tính, sốt cao, buồn nôn, ói mửa, cứng cổ và cảm giác mệt mỏi. Nếu không được điều trị kịp thời, nó có thể gây ra biến chứng nghiêm trọng như co giật, mất ý thức, tê liệt và thậm chí gây tử vong.
Viêm màng não mủ là một bệnh nhiễm trùng lan tỏa trong hệ thống màng não và tủy sống. Bệnh này có thể do nhiều loại vi khuẩn, virus, nấm hoặc tác nhân gây nhiễm khác gây ra. Các vi khuẩn phổ biến gây ra viêm màng não mủ bao gồm Streptococcus pneumoniae, Neisseria meningitidis và Haemophilus influenzae.
Triệu chứng của viêm màng não mủ có thể bắt đầu đột ngột và nhanh chóng trở nên nghiêm trọng. Một số triệu chứng thông thường gồm:
1. Đau đầu: Đau đầu thường được miêu tả là cấp tính và nặng nề, có thể lan rộng và trở nên tăng cường khi người bệnh cố gắng cụ thể như cong cổ hoặc hoạt động.
2. Sốt cao: Sốt cao thường gắn liền với viêm màng não mủ. Nhiệt độ có thể lên đến 39-40°C.
3. Buồn nôn và ói mửa: Cảm giác buồn nôn và ói mửa thường kèm theo viêm màng não mủ và có thể xuất hiện ngay sau một cơn đau đầu.
4. Cứng cổ: Cứng cổ là một triệu chứng chính của viêm màng não mủ. Cổ bị cứng và không thể cúi xuống cũng như khó khăn trong việc bẻ cổ lên phía trước.
5. Cảm giác mệt mỏi và mất năng lượng: Viêm màng não mủ có thể dẫn đến mệt mỏi mất năng lượng nhanh chóng.
Nếu không được điều trị kịp thời, viêm màng não mủ có thể gây ra các biến chứng nguy hiểm bao gồm viêm não, co giật, mất ý thức, tê liệt, suy hô hấp và thậm chí gây tử vong. Vì vậy, việc chẩn đoán và điều trị sớm là rất quan trọng để ngăn chặn các biến chứng nghiêm trọng và cải thiện kết quả của bệnh nhân.
Viêm màng não mủ là một bệnh nhiễm trùng lan tỏa trong hệ thống màng não và tủy sống. Bệnh này thường được chia thành hai hình thức chính là viêm màng não mủ mạn tính (hay còn gọi là viêm màng não mủ đặc trị) và viêm màng não mủ cấp tính (hay còn gọi là viêm màng não mủ lanh tính).
Viêm màng não mủ mạn tính: Đây là hình thức bệnh phổ biến nhất và nguy hiểm nhất. Nó thường do các vi khuẩn gây nhiễm như Streptococcus pneumoniae, Haemophilus influenzae, Neisseria meningitidis. Triệu chứng ban đầu thường rất không đặc hiệu, giống như một cơn cảm lạnh thông thường, bao gồm sự mệt mỏi, đau đầu, sốt nhẹ, nôn mửa, sụt cân. Tình trạng này có thể tiến triển sang phần sau của bệnh với triệu chứng như cứng cổ, cảm giác sợ sáng, co giật, mất ý thức và các biến chứng nghiêm trọng khác như viêm não, suy hô hấp, suy thận, thậm chí tử vong.
Viêm màng não mủ cấp tính: Đây là hình thức ít nguy hiểm hơn và thường tự giới hạn. Nó thường xuất hiện sau một cơn cảm lạnh hoặc viêm họng và do các virus gây nhiễm như virus Herpes simplex, virus Varicella zoster, virus Epstein-Barr. Triệu chứng bao gồm đau đầu, sốt nhẹ, mệt mỏi, mất năng lượng, nhức mỏi cơ và khớp, khó chịu, không có cứng cổ và triệu chứng thần kinh ngoại vi.
Viêm màng não mủ thường được chẩn đoán thông qua việc khám bệnh, xét nghiệm dịch tủy não, xét nghiệm máu và đôi khi có thể cần thực hiện các xét nghiệm hình ảnh như CT scan hay MRI.
Điều trị viêm màng não mủ thường bao gồm sự kết hợp giữa điều trị nội khoa và ngoại khoa. Phương pháp điều trị cụ thể sẽ phụ thuộc vào loại vi khuẩn hoặc virus gây nhiễm, nhưng có thể bao gồm sự sử dụng kháng sinh, thuốc kháng vi rút, thuốc giảm đau, thuốc chống co giật và các biện pháp chăm sóc và hỗ trợ như nghỉ ngơi, điều chỉnh chế độ ăn, uống đủ nước và dưỡng chất. Việc tiêm vắc xin viêm màng não cũng rất quan trọng để phòng ngừa bệnh.
Viêm màng não Chagas ở người suy miễn dịch Dịch bởi AI Arquivos de Neuro-Psiquiatria - Tập 56 Số 1 - Trang 93-97 - 1998
Dựa trên kinh nghiệm của bản thân và tài liệu hiện có, các tác giả so sánh bệnh lý não bộ do nhiễm trùng Trypanosoma cruzi tái hoạt hóa liên quan đến HIV+ với những gì đã được mô tả trong lịch sử tự nhiên của bệnh Chagas (CD). Viêm màng não và não chagas hoại tử biệt hóa (MECNF) đặc trưng, xuất hiện chỉ ở những người mắc bệnh Chagas suy giảm miễn dịch, đặc biệt khi sự suy giảm đó do HIV, là tiêu chí an toàn cho tái hoạt hóa CD. Các phát hiện hình thái của MECNF khác với những gì tìm thấy trong một số trường hợp của giai đoạn cấp tính của CD hoặc hình thức thần kinh mạn tính của CD.
Triển khai các xét nghiệm chẩn đoán nhanh bệnh lao và viêm màng não do nấm Cryptococcus ở những bệnh nhân HIV giai đoạn nặng tại Bệnh viện Trung ương Kamuzu, Malawi, 2016–2017 Dịch bởi AI BMC Infectious Diseases - - 2022
Tóm tắt
Đặt vấn đề
Viêm màng não do nấm Cryptococcus (CM) và bệnh lao (TB) vẫn là những nguyên nhân hàng đầu gây nhập viện và tử vong ở những người sống chung với HIV, đặc biệt là những người mắc bệnh HIV giai đoạn nặng. Ở những bệnh nhân nhập viện, việc chẩn đoán kịp thời các bệnh này có thể cải thiện kết quả điều trị. Các xét nghiệm chẩn đoán nhanh HIV giai đoạn nặng như xét nghiệm dòng chảy bên TB lipoarabinomannan trong nước tiểu (urine LAM), xét nghiệm X-pert MTB/RIF trong nước tiểu (urine X-pert), và xét nghiệm kháng nguyên Cryptococcus trong huyết thanh/máu (serum CrAg) được khuyến cáo nhưng thường không có sẵn ở nhiều cơ sở y tế có tài nguyên hạn chế. Chúng tôi mô tả kinh nghiệm của chúng tôi trong việc cung cấp những xét nghiệm này trong một môi trường bệnh viện thường xuyên.
Phương pháp
Từ 1 tháng 8 năm 2016 đến 31 tháng 1 năm 2017, một nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu nhằm chẩn đoán TB và viêm màng não do nấm Cryptococcus bằng các xét nghiệm point of care đã được thực hiện tại các khoa điều trị nội ở Bệnh viện Trung ương Kamuzu, ở Lilongwe, Malawi. Các xét nghiệm được cung cấp bao gồm đo lường số lượng tế bào CD4 PIMA, serum CrAg, urine LAM và urine X-pert. Việc xét nghiệm được tích hợp vào một phòng điều trị HIV/TB hiện có tại các khoa và được thực hiện gần thời gian nhập viện. Bệnh nhân được theo dõi cho đến khi xuất viện hoặc tử vong trong khoa.
Kết quả
Chúng tôi đã bao gồm 438 bệnh nhân dương tính với HIV; 76% đã có chẩn đoán HIV trước đó (87% đã bắt đầu điều trị ART). Chúng tôi đã đo lường số lượng tế bào CD4 ở 365/438 (83%), serum CrAg ở 301/438 (69%), urine LAM ở 363/438 (83%), và urine X-pert ở 292/438 (67%). Số lượng tế bào CD4 trung bình là 144 tế bào/ml (IQR 46–307). Tỷ lệ dương tính với serum CrAg là 23/301 (8%) và CM được xác nhận bằng CSF CrAg ở 13/23 (56%). Phần lớn bệnh nhân CM 9/13 (69%) bắt đầu điều trị thuốc chống nấm trong vòng hai ngày kể từ khi chẩn đoán. Tỷ lệ dương tính của urine LAM và urine X-pert lần lượt là 81/363 (22%) và 14/292 (5%). Tỷ lệ dương tính của urine LAM cao hơn ở những bệnh nhân có số lượng tế bào CD4 thấp (< 100 tế bào/ml) và BMI thấp (< 18.5). Hầu hết các bệnh nhân có urine LAM dương tính đã bắt đầu điều trị TB cùng ngày. Mặc dù đã phát hiện sớm và điều trị TB và CM, tỷ lệ tử vong trong bệnh viện vẫn cao; lần lượt là 30% và 25%.
Kết luận
Mặc dù các xét nghiệm chẩn đoán nhanh HIV giai đoạn nặng được khuyến cáo, một thách thức chính trong việc triển khai là số lượng nhân viên được đào tạo hạn chế để thực hiện các xét nghiệm. Mặc dù việc sử dụng hiệu quả các xét nghiệm point of care trong chăm sóc lâm sàng cho bệnh nhân TB và CM nhập viện, tỷ lệ tử vong ở những bệnh nhân này vẫn ở mức cao không thể chấp nhận. Do đó, chúng tôi cần đào tạo thêm các nhóm nhân viên ngoài y tá, bác sĩ lâm sàng và kỹ thuật viên phòng thí nghiệm để thực hiện các xét nghiệm này. Cần thiết phải xác định và sửa đổi các yếu tố nguy cơ khác gây ra tỷ lệ tử vong từ TB và CM.
#HIV #viêm màng não do nấm Cryptococcus #bệnh lao #xét nghiệm chẩn đoán nhanh #chăm sóc bệnh nhân
GIÁ TRỊ CỦA LACTAT DỊCH NÃO TỦY TRONG ĐÁNH GIÁ ĐÁP ỨNG ĐIỀU TRỊ VIÊM MÀNG NÃO MỦ Ở TRẺ EMMục tiêu: Xác định độ nhạy, độ đặc hiệu của xét nghiệm lactate trong dịch não tủy (DNT) để đánh giá đáp ứng điều trị sau 48 giờ dùng kháng sinh ở trẻ viêm màng não mủ.
Đối tượng và phương pháp: Bệnh nhân nhi nhập viện tại Trung tâm Nhi khoa Bệnh viện đa khoa Trung ương Huế trong 3 năm (2016 - 2018), với chẩn đoán viêm màng não mủ. Xác định chẩn đoán dựa vào phân tích kết quả dịch não tủy. Nghiên cứu mô tả, tiến cứu.
Cỡ mẫu: mẫu được lấy theo phương pháp chọn mẫu thuận tiện. Các biến số nghiên cứu: tế bào, protein, glucose, lactate DNT trước và sau 48 giờ; đáp ứng điều trị (hoàn toàn, không hoàn toàn). Sử dụng đường cong ROC (Receiver Operating Characteristic) để phân tích khả năng dự báo đáp ứng điều trị của lactate DNT.
Kết quả: 54 trường hợp VMNM (37 nam, 17 nữ), trung vị tuổi 46 tháng. 35 trường hợp đáp ứng hoàn toàn sau 48 giờ điều trị kháng sinh. Nếu lactate DNT trước điều trị > 7,7mmo/l tiên lượng khả năng đáp ứng không hoàn toàn với độ nhạy 75% và độ đặc hiệu 80%. Mức giảm lactate DNT ở nhóm đáp ứng hoàn toàn nhiều hơn có ý nghĩa so với nhóm đáp ứng không hoàn toàn (6,5 ± 1,7mmol/l so với 2,3 ± 1,6mmol/l, p < 0,001). Với mức giảm lactate DNT > 3mmol/l so với ban đầu tiên đoán đáp ứng điều trị hoàn toàn có độ nhạy 87% và độ đặc hiệu 87,1%. Diện tích dưới đường cong của mức thay đổi lactate DNT AUC = 0,887 và lớn hơn so với protein, glucose và tế bào dịch não tủy. Kết luận: nồng độ lactate DNT lúc ban đầu và mức độ giảm sau 48 giờ điều trị có giá dự báo đáp ứng điều trị, tốt hơn so với protein, glucose và tế bào DNT tương ứng.
#Dịch não tủy #viêm màng não
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG BỆNH VIÊM MÀNG NÃO MỦ Ở NGƯỜI LỚN TẠI BỆNH VIỆN TỈNH THANH HÓAĐể góp phần nâng cao kết quả điều trị và phòng chống bệnh viêm màng não mủ (VMNM) tại tỉnh Thanh Hóa, một nghiên cứu hồi cứu trong giai đoạn 7/2019 - 6/2022 đã xác định được 24 bệnh nhân người lớn VMNM, đáp ứng các tiêu chuẩn lâm sàng và vi sinh, điều trị tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa. Kết quả cho thấy, tại Thanh Hóa, bệnh VMNM rải rác quanh năm, tăng vào các tháng thời tiết nóng. Bệnh gặp ở mọi nhóm tuổi, tập trung ở nhóm 41- 60 tuổi (50,0%), nam chiếm 75%. nghề nông chiếm 66,7% và tỷ lệ có bệnh nền là 62,5%. Các biểu hiện lâm sàng và dịch não tủy không điển hình. Sốt chỉ gặp ở 87,5%, tần xuất các biểu hiện đau đầu, cứng gáy, nôn và Kernig từ 54,2% - 100,0%. Tỷ lệ VMNM kết hợp nhiễm khuẩn huyết là 62,5%. Các căn nguyên gây bệnh gồm S. suis (70,8%) và S. pneumoniae (20,8%) đều nhậy cảm với cephalosporin thế hệ III và vancomycin, trong khi E. coli (4,2%), S. mitis (4,2%) kháng với các kháng sinh trên. S. suis hay gặp ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch, S. pneumoniae có liên quan với đường xâm nhập.
#viêm màng não mủ #Streptococcus suis #Streptococcus pneumoniae
KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM RÒ DỊCH NÃO TỦY QUA MŨI TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY TỪ NĂM 2017 ĐẾN NĂM 2022Đặt vấn đề: Rò dịch não tủy qua mũi là một tình trạng trong đó có sự thông thương giữa dịch não tủy trong khoang nội sọ với hốc mũi. Về nguyên nhân, rò dịch não tủy thường được chia thành nguyên nhân không chấn thương và nguyên nhân chấn thương. Nguyên nhân chấn thương thường gặp hơn và có thể gây ra bởi điều trị (thứ phát sau phẫu thuật sàn sọ trước và phẫu thuật nội soi mũi xoang). Những bệnh nhân rò dịch não tủy qua mũi có nguy cơ viêm màng não và các biến chứng nội sọ khác do sự xâm nhập của vi khuẩn từ hốc mũi. Mặc dù có những tiến bộ về nội khoa, các biến chứng này vẫn đe dọa tính mạng người bệnh, do đó cần chẩn đoán sớm, xác định chính xác vị trí rò và can thiệp kịp thời để giảm tử suất. Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân rò dịch não tủy qua mũi. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hồi cứu hàng loạt ca. Nghiên cứu được tiến hành tại bệnh viện Chợ Rẫy từ năm 2021 đến năm 2022. Nghiên cứu bao gồm 84 bệnh nhân được chẩn đoán rò dịch não tủy qua mũi. Kết quả: Nguyên nhân thường gặp nhất gây ra rò dịch não tủy qua mũi là chấn thương đầu (82,2%), các nguyên nhân khác có thể là tổn thương gây ra trong phẫu thuật (13,1%) và rò dịch não tủy tự phát (4,8%). Phần lớn bệnh nhân là nam giới (83,3%). Các triệu chứng thường gặp là chảy dịch mũi trong một hay hai bên, đau đầu (42,9%), sốt (19,0%). Tỉ lệ biến chứng viêm màng não mủ là 13,1%. Chụp cắt lớp vi tính được chỉ định ở tất cả các bệnh nhân, cho thấy dấu hiệu tụ khí nội sọ (76,4%), mất liên tục xương sàn sọ (62,5%), mức khí dịch trong các xoang cạnh mũi (40,3%), khối thoát vị não-màng não (2,8%). Kết luận: Rò dịch não tủy qua mũi có thể gây ra bởi chấn thương hoặc không do chấn thương. Ngoài triệu chứng chảy dịch mũi trong, có thể có các triệu chứng khác đi kèm. Rò dịch não tủy qua mũi có thể dẫn tới biến chứng viêm màng não, đe dọa tính mạng bệnh nhân.
#rò dịch não tủy qua mũi #dịch não tủy #viêm màng não.
Ý định tiêm vắc xin toàn cầu chống lại bệnh thủy đậu, viêm dạ dày ruột do rotavirus, bệnh màng não cầu khuẩn B và cảm cúm mùa trong số các bậc phụ huynh ở Hà Lan: một khảo sát trên internet Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 10 - Trang 1-6 - 2017
Để đưa ra quyết định về việc giới thiệu các loại vắc xin mới vào Chương trình Tiêm chủng Quốc gia (NIP), việc có cái nhìn trước về mức độ chấp nhận tiềm năng trong cộng đồng là rất cần thiết. Chúng tôi đã nghiên cứu ý định của các bậc phụ huynh về việc tiêm chủng cho con họ chống lại bốn bệnh không được NIP hiện tại bao phủ ở Hà Lan. Kết quả về bệnh thủy đậu đã được công bố trước đó; bài báo này bổ sung thêm kết quả về tiêm phòng viêm dạ dày ruột do rotavirus, bệnh màng não cầu khuẩn B, và cảm cúm mùa. Chúng tôi đã mời một mẫu ngẫu nhiên từ sổ đăng ký tiêm chủng quốc gia với 1500 bậc phụ huynh để thực hiện một khảo sát trên internet, trong đó có 491 bậc phụ huynh hoàn thành (tỉ lệ phản hồi 33%). Ý định tiêm chủng cao nhất đối với bệnh màng não cầu khuẩn B (83% ý định tích cực), tiếp theo là viêm dạ dày ruột do rotavirus (38%), và thấp nhất là bệnh thủy đậu (28%) và cảm cúm mùa (15%). Các phân tích dự đoán đã được thực hiện để xác định tuyên bố nào trong bảy tuyên bố của bảng hỏi là thông tin nhất trong việc dự đoán ý định tiêm chủng. Các yếu tố chính thúc đẩy ý định bao gồm tầm quan trọng được nhận thức của việc tiêm phòng chống bệnh cụ thể và nhận thức về mức độ nghiêm trọng của bệnh có đủ để xác đáng cho việc tiêm chủng hay không. Kết quả của nghiên cứu này sẽ cung cấp thông tin hữu ích trong quá trình ra quyết định xem có nên giới thiệu các loại vắc xin mới vào NIP hay không.
#tiêm chủng #vắc xin #bệnh thủy đậu #viêm dạ dày ruột #màng não cầu khuẩn B #cảm cúm mùa #Hà Lan
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ VIÊM MÀNG NÃO MỦ SAU DẪN LƯU NÃO THẤT (1/2017-8/2020)Mục tiêu: Đánh giá đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và phương pháp điều trị viêm màng não mủ sau dẫn lưu não thất ổ bụng.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu trên 34 bệnh nhân chẩn đoán viêm màng não mủ sau dẫn lưu não thất ổ bụng trong khoảng thời gian từ tháng 1/2017 đến tháng 8/2020 tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung Ương.
Kết quả: Nam giới chiếm tỷ lệ 94,1%; tỷ lệ nam/nữ: 17/1. Tuổi trung bình là 34,1 ± 15,3 (tuổi), trung vị: 31,5 tuổi; tuổi thấp nhất: 8 tuổi, cao nhất: 71 tuổi. Hầu hết nhiễm trùng xảy ra trong 30 ngày đầu chiếm 70,6%.Triệu chứng lâm sàng: Sốt xuất hiện ở 100% bệnh nhân, rối loạn ý thức và đau đầu xuất hiện ở 14,7% bệnh nhân, nôn: 11,8% bệnh nhân, cứng gáy: 79,4%. Nguyên nhân viêm màng não hàng đầu do Acinetobacter baumannii chiếm tỷ lệ 35,3%; tiếp theo Klebsiella pneumoniae chiếm 26,5%; Staphylococcus aureus: 14,7%. Điều trị kháng sinh phối hợp với thay thế dẫn lưu bằng cách dẫn lưu ra ngoài hoặc dẫn lưu ổ bụng tỷ lệ khỏi lần lượt là 90% và 100%.
Kết luận: Triệu chứng lâm sàng viêm màng não sau dẫn lưu não thất ổ bụng không điển hình. Vi khuẩn gây viêm màng não Acinetobacter baumannii: 35,3%, Klebsiella pneumonia: 26,5%; Staphylococcus aureus: 14,7%. Điều trị kháng sinh phối hợp với phẫu thuật thay thế dẫn lưu nhiễm trùng cho kết quả điều trị hiệu quả hơn.
#Viêm màng não sau dẫn lưu não thất ổ bụng
Viêm màng não- não mô mãn tính do virus enterovirus ở bệnh nhân thiếu miễn dịch miễn dịch gamma: Báo cáo trường hợp và tổng quan tài liệu Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 12 - Trang 266-270 - 1992
Viêm màng não- không mô mãn tính do virus enterovirus là một biến chứng đã được công nhận ở bệnh nhân bị thiếu miễn dịch gamma liên kết X (XLA). Phần lớn các trường hợp đã được công bố đề cập đến sự xuất hiện của nó ở những bệnh nhân không điều trị thay thế hoặc chỉ điều trị bằng immunoglobulin tiêm bắp. Sự xuất hiện của immunoglobulin tĩnh mạch (IVIg) vào những năm 1980 và việc sử dụng rộng rãi nó ở bệnh nhân XLA đã được cho là hoàn toàn xóa bỏ viêm màng não- không mô do virus enterovirus ở những bệnh nhân này. Chúng tôi mô tả sự phát triển của viêm màng não do echovirus ở một bé trai 11 tuổi đang điều trị IVIg thay thế định kỳ với mức độ IgG trong huyết thanh được duy trì ở mức giữa 6 và 8 g/L (NR 6–13 g/L). Việc điều trị bằng IVIg liều cao hàng ngày đã được bắt đầu, với sự cải thiện lâm sàng đáng kể được ghi nhận chỉ sau vài tuần, đi kèm với việc giảm tính thấm của hàng rào máu-não. Tuy nhiên, sự tồn tại của virus sống đã necessitated việc sử dụng immunoglobulin nội thất thất. Virus này đã cho thấy sự kháng với hai đợt điều trị immunoglobulin nội thất thất đặc hiệu và một đợt điều trị ribavirin đường uống kéo dài 6 tuần và cuối cùng đã dẫn đến tử vong 5 tháng sau khi xuất hiện triệu chứng. Với những không chắc chắn trong điều trị, chúng tôi đã xem xét việc sử dụng immunoglobulin trong điều trị viêm màng não- không mô do virus enterovirus trong 6 năm qua.
#viêm màng não #virus enterovirus #thiếu miễn dịch #immunoglobulin #IVIg
Tác động của thời gian mở khí quản đến kết quả lâm sàng và sự kiện bất lợi ở bệnh nhân intubation với các tổn thương dưới tán màng não: mở khí quản sớm so với muộn Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - - 2020
Chúng tôi đã đánh giá mối liên hệ giữa thời gian mở khí quản và kết quả lâm sàng ở bệnh nhân có tổn thương dưới tán màng não. Chúng tôi thực hiện một nghiên cứu quan sát hồi cứu trên một nhóm bệnh nhân tại đơn vị chăm sóc đặc biệt phẫu thuật thần kinh (ICU) tại một trung tâm y tế học thuật cấp ba từ tháng 1 năm 2014 đến tháng 12 năm 2018. Các bệnh nhân trưởng thành liên tiếp nhập viện vào ICU, những người đã trải qua cắt bỏ tổn thương dưới tán màng não cũng như mở khí quản được đưa vào phân tích. Mở khí quản sớm được định nghĩa là thực hiện trong ngày 1–10 sau phẫu thuật và mở khí quản muộn trong ngày 10–20 sau phẫu thuật. Phân tích đơn biến và đa biến được sử dụng để so sánh các đặc điểm và kết quả giữa hai nhóm. Tổng cộng có 143 bệnh nhân đã được xác định, trong đó 96 bệnh nhân nhận được mở khí quản sớm. Phân tích đa biến xác định mở khí quản sớm là một biến độc lập có liên quan đến việc giảm tỷ lệ viêm phổi (tỷ lệ Odds, 0.25; 95% CI, 0.09–0.73; p = 0.011), thời gian lưu trú ngắn hơn tại các ICU (tỷ lệ hiểm họa, 0.4; 95% CI, 0.3–0.6; p = 0.03), và thời gian rút ống sớm hơn (tỷ lệ hiểm họa, 0.5; 95% CI, 0.4–0.8; p = 0.003). Tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể nào được quan sát giữa nhóm mở khí quản sớm và muộn về tỷ lệ tử vong trong bệnh viện (p > 0.999) và thang điểm Rankin sửa đổi sau 6 tháng (p = 0.543). Chúng tôi cũng xác định được các thiếu hụt thần kinh thân não sau phẫu thuật, bao gồm các phản xạ ho, nỗ lực nuốt, và lưỡi mở rộng cũng như GCS < 8 tại thời điểm nhập ICU như là các yếu tố nguy cơ độc lập liên quan đến bệnh nhân đã trải qua mở khí quản. Có một mối liên hệ đáng kể giữa mở khí quản sớm và các kết quả lâm sàng có lợi hoặc giảm tỷ lệ sự cố bất lợi ở bệnh nhân có tổn thương dưới tán màng não.
#mở khí quản sớm #mở khí quản muộn #tổn thương dưới tán màng não #kết quả lâm sàng #viêm phổi
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG VIÊM MÀNG NÃO MỦ Ở TRẺ SƠ SINH TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG CẦN THƠĐặt vấn đề: Viêm màng não mủ là một bệnh nguy hiểm, đặc biệt ở trẻ sơ sinh, biểu hiện lâm sàng bệnh không điển hình và dễ chẩn đoán nhầm. Việc chẩn đoán bệnh cần dựa vào cả lâm sàng và cận lâm sàng; trong đó, dịch não tuỷ đóng vai trò quan trọng. Mục tiêu: Mô tả các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả dịch não tủy của trẻ sơ sinh mắc viêm màng não mủ nhập viện tại Bệnh viện Nhi đồng Cần Thơ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: báo cáo loạt ca trên 32 trẻ sơ sinh được chẩn đoán viêm màng não mủ tại khoa Sơ sinh Bệnh viện Nhi đồng Cần Thơ từ tháng
6/2021 đến tháng 6/2022. Kết quả: Đặc điểm lâm sàng: triệu chứng xuất hiện nhiều nhất là sốt với 53,1%. Triệu chứng vàng da, hô hấp, co giật được ghi nhận nhiều ở nhóm nhiễm trùng sơ sinh sớm. Triệu chứng sốt, khò khè và các triệu chứng tiêu hóa gặp nhiều ở nhóm nhiễm trùng sơ sinh muộn. Đặc điểm cận lâm sàng: 12,5% trường hợp giảm bạch cầu và 28,1% tăng bạch cầu. Có 40,6% trường hợp tăng CRP. Đặc điểm dịch não tủy: nồng độ protein dịch não tủy trung bình là 107,2mg/dL và có 46,9% trường hợp tăng nồng độ protein; tế bào dịch não tủy có trung vị là 20 tế bào/mm3 và 56,3% trường hợp tăng tế bào dịch não tủy; nồng độ glucose dịch não tủy có trung vị là 50,4mg/dL và 3,2% trường hợp có nồng độ glucose giảm; cấy dịch não tủy: 100% âm tính. Kết luận: Sốt là triệu chứng gặp nhiều nhất và đa số gặp ở nhóm trẻ nhiễm trùng sơ sinh muộn. Thay đổi tế bào trong DNT là chỉ số nhạy nhất trong công thức DNT. Nồng độ glucose dịch não tủy thường biến động, ít có giá trị gợi ý chẩn đoán viêm màng não mủ.
#Viêm màng não mủ #nhiễm trùng sơ sinh #dịch não tủy